Bài giảng Môn Ngữ Văn Lớp 12 - Bài 3: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Môn Ngữ Văn Lớp 12 - Bài 3: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bai_giang_mon_ngu_van_lop_12_bai_3_chiec_thuyen_ngoai_xa_ngu.pptx
Nội dung tài liệu: Bài giảng Môn Ngữ Văn Lớp 12 - Bài 3: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
- I. Đọc hiểu khái quát 1. Tác giả a. Cuộc đời (SGK) b. Văn nghiệp - Nguyễn Minh Châu thuộc “một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). - Trước 1975, ông là nhà văn có thiên hướng sử thi, trữ tình, lãng mạn. - Sau 1975, ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
- 2. Tác phẩm a. Xuất xứ - Viết tháng 8/1983, in trong tập truyện cùng tên, NXB Tác phẩm mới, 1987. b. Hoàn cảnh sáng tác - Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc, đất nước độc lập, thống nhất. - Cuộc sống với “muôn mặt đời thường” trở lại sau chiến tranh. - Nhiều vấn đề đời sống, văn hóa, nhân sinh mà trước đây, do hoàn cảnh chiến tranh, chưa được chú ý, nay được đặt ra. - Nhiều quan niệm đạo đức phải được nhìn nhận lại trong tình hình mới với nhiều yếu tố mới nảy sinh sau khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. → Văn học cũng phải chuyển mình do những tác động ấy. → Tác phẩm mang xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc thân phận con người đời thường nhiều phức tạp, đan xen thiện – ác, mang nhiều triết lí nhân sinh. c. Đánh giá - Tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn 1975 – hết thế kỉ XX.
- d. Tóm tắt Để có được bộ lịch nghệ thuật về biển và thuyền thật đẹp, theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã quay về vùng biển anh từng chiến đấu. Chuyến công tác này giúp Phùng gặp lại người đồng đội năm xưa, Đẩu, nay là chánh án tòa án huyện. Phùng đã phục kích gần một tuần lễ mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Thật bất ngờ, một buổi sáng sớm, anh đã chụp được một cảnh đắt trời cho – một chiếc thuyền kéo lưới trong sương mù ban mai đang tiến vào bờ Bức tranh toàn bích khiến Phùng cảm thấy rung động, ngập tràn hạnh phúc. Nhưng cũng thật bất ngờ, khi thuyền cập bến, Phùng chứng kiến cảnh người chồng tàn bạo hành hạ, đánh đập vợ con. Ba ngày sau, Phùng lại tiếp tục chứng kiến cảnh chồng đánh vợ, đứa con bênh vực mẹ, chống lại người cha bằng hành động tương tự. Phùng không thể chịu được, anh xông ra can và bị người chồng đánh trả. Anh bị thương và được đưa về trạm y tế. Người vợ, vì thế cũng phải lên tòa án huyện. Tại đây, Phùng và Đẩu được nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, sự thật với biết bao đau khổ. Chị nhất định không lìa bỏ người chồng độc ác vì chị cần có người đàn ông chèo chống con thuyền, đặng nuôi một sắp con. Sau khi nghe xong, cả Phùng và Đẩu đều vỡ ra một điều gì đó. Tấm ảnh Phùng chụp ấy được đón nhận, nhất là ở những nhà sành nghệ thuật. Với Phùng, mỗi khi ngắm lại bức ảnh, anh đều nhìn thấy hình ảnh người đàn bà hàng chài hiện ra.
- e. Nhan đề: Chiếc thuyền ngoài xa - Đối tượng: chiếc thuyền. - Khoảng cách với người ngắm (Phùng): ngoài xa - Nghĩa thực: chiếc thuyền là hình ảnh đẹp của thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài. - Nghĩa biểu tượng: + Chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự toàn thiện. + Chiếc thuyền khi cập bờ: cái xấu xí của cuộc sống hiện ra – chồng đánh, chửi rủa vợ tàn bạo. → Chiếc thuyền – nghệ thuật. → Ngoài xa: khoảng cách của người nghệ sĩ với cuộc đời ➔ Khi không bám vào, gần gũi với cuộc đời, tác phẩm của người nghệ sĩ chỉ là một cái nhìn không thực, giả dối, không thực mang giá trị. → Thông điệp của Nguyễn Minh Châu: “ Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”
- f. Bố cục - Phần 1: Đầu → Chiếc thuyền lưới vó đã biến mất – hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. - Phần 2: Tiếp → chống chọi với sóng gió giữa phá - câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án. - Phần 3: Còn lại – Câu chuyện về bức ảnh và những suy nghĩ của Phùng mỗi khi nhìn lại nó.
- II. Đọc hiểu chi tiết 1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng a. Phát hiện tứ nhất – Bức tranh thiên nhiên toàn bích Có lẽ suốt một đời cầm máy chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tang hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại.” Tìm những đặc điểm của bức ảnh? Phùng đánh giá nó như thế nào? Thái độ, cảm xúc, hành động của anh trước nó?
- II. Đọc hiểu chi tiết 1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng a. Phát hiện tứ nhất – Bức tranh thiên nhiên toàn bích - Bức tranh: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi - Phùng đánh giá: một cảnh “đắt” trời cho; một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ; toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích → siêu phẩm quý, hiếm, độc của tạo hóa mà trong đời nghệ sĩ không phải lúc nào cũng có thể “chộp” được. + bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào; - Thái độ, Anh bấm “liên thanh” hết ¼ cuộn phim cảm xúc, + khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, thu vào chiếc Pra-ti-ca cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp suy nghĩa + khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn; tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại. của Phùng: thực sự “ngộ” được chân lí bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Xúc động vô cùng, cảm nhận được cái chân, thiện, mĩ của nghệ thuật, thấy tâm hồn được gột rửa. Tác dụng thanh lọc tâm hồn của nghệ thuật.
- - Thạch Lam: văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn ác vừa làm cho tâm hồn con người trong sạch và phong phú hơn. - “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân, đoạn cuối truyện: “ Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!” - Tác dụng của bi kịch, theo Aritxtot: thanh lọc tâm hồn con người.
- II. Đọc hiểu chi tiết 1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng b. Phát hiện thứ hai: Bức tranh cuộc sống phũ phàng Đọc đoạn văn: “Ngay lúc ấy chiếc thuyền lưới vó đã biến mất” và cho biết: Khi chiếc thuyền chạm bờ, Phùng đã phát hiện ra những gì? Thái độ, cảm xúc của anh trước những phát hiện đó? Vì sao anh lại có thái độ, cảm xúc đó? - Đó là: + Những ai? - Gia đình hàng chài: . Người đàn bà: khuôn mặt mỏi mệt, tái ngắt; tấm lưng bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. . Người đàn ông: mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt độc dữ → Nghèo, khốn khổ, ẩn chứa những đớn đau và cả phẫn uất.
- + Họ làm gì, nói gì: . Người đàn ông: ., Đe dọa: Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ → nói với con gái. ., trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” → Chồng đánh chửi vợ. . Người đàn bà: Im lặng, nhẫn nhục, không phản kháng, không kêu khóc, van xin.
- + Họ làm gì, nói gì: . Thằng Phác – đứa con trai: chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực vạm vỡ, cháy nắng → Con đánh bố. . Người đàn ông: dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. → Bố đánh con. . Người đàn bà: khóc, gọi con, ôm nó rồi lại buông, vái con, ôm chầm nó bất ngờ buông nó ra, đi thật nhanh về thuyền. . Thằng Phác: chẳng hề hé răng, lau nước mắt cho mẹ ngơ ngác khi mẹ bỏ lại trên bờ biển.